lunes, 5 de mayo de 2014

La Biblia de Barro (parte 3)

—Carlo, me voy al aeropuerto, cojo el primer avión que salga para Roma, no me puedo quedar aquí...
—Mercedes, no te muevas hasta que te llame, no podemos cometer errores. No escapará, confía en mí.
Colgó el teléfono sintiendo la misma angustia que había notado en la mujer. Conociéndola, no descartaba que en dos horas le llamara desde Fiumicino. Mercedes era incapaz de quedarse quieta y esperar, y en aquel momento menos que nunca. Marcó un número de teléfono de Bonn y esperó impaciente a que alguien respondiera.
—¿Quién es?
—¿El profesor Hausser, por favor?
—¿Quién le llama?
—Carlo Cipriani.
—¡Soy Berta! ¿Qué tal está usted?
—¡Ah, querida Berta, qué alegría escucharte! ¿Cómo están tu marido y tus hijos?
—Muy bien, gracias, con ganas de volver a verle, no se olvidan de las vacaciones que pasamos hace tres años en su casa de la Toscana, nunca se lo agradeceré bastante, nos invitó en un momento en que Rudolf estaba al borde del agotamiento y...
—Vamos, vamos, no me des las gracias. Estoy deseando volver a veros, estáis siempre invitados. Berta, ¿está tu padre? La mujer percibió el apremio en la voz del amigo de su padre e interrumpió la
charla no sin cierta preocupación.
—Sí, ahora se pone. ¿Está usted bien? ¿Pasa algo?
—No, querida, nada, sólo quería charlar un rato con él.
—Sí, ahora se pone. Hasta pronto, Carlo.
—¡Ciao, preciosa!
No pasaron más que unos breves segundos antes de que la voz fuerte y rotunda del profesor Hausser le llegara a través de la línea telefónica.
—Carlo...
—Hans, ¡está vivo!
Los dos hombres se quedaron en silencio, cada uno escuchando la respiración cargada de tensión del otro.
—¿Dónde está?
—Aquí, en Roma. Le he encontrado por casualidad, hojeando un periódico. Sé que no te gusta internet, pero entra y busca cualquier periódico italiano, en las páginas de cultura, allí le encontrarás. He contratado a una agencia de detectives para que le vigilen las veinticuatro horas y le sigan vaya a donde vaya si deja Roma. Nos tenemos que ver. Ya he hablado con Mercedes, ahora llamaré a Bruno.
—Iré a Roma.
—No sé si es buena idea que nos veamos aquí.
—¿Por qué no? Él está ahí y tenemos que hacerlo. Vamos a hacerlo.
—Sí. No hay nada en el mundo que pueda impedírnoslo.
—¿Lo haremos nosotros?
—Si no encontramos a alguien sí. Yo mismo. He pensado en ello durante toda mi vida, en cómo sería, qué sentiría... Estoy en paz con mi conciencia.
—Eso, amigo mío, lo sabremos cuando haya acabado todo. Que Dios nos perdone, o que al menos nos comprenda.
—Espera, me llaman por el móvil... es Bruno. Cuelga, te volveré a llamar.
—¡Carlo!
—Bruno, te iba a llamar ahora...
—Me ha llamado Mercedes..., ¿es verdad?
—Sí.
—Salgo inmediatamente de Viena para Roma, ¿dónde nos vemos?
—Bruno, espera...
—No, no voy a esperar. Lo he hecho durante más de sesenta años y si él ha aparecido no voy a esperar ni un minuto más. Quiero participar, Carlo, quiero hacerlo...
—Lo haremos. De acuerdo, venid a Roma. Llamaré otra vez a Mercedes y a Hans.
—Mercedes se ha ido ya al aeropuerto, y mi avión sale de Viena dentro de una hora. Avisa a Hans.
—Os espero en casa.

* Không biết có dài quá không, nhưng mọi người cố gắng đi cho hết đoạn điện thoại này, ngắt ra cũng không biết ngắt đâu cho liền mạch. Sau 7h tối thứ 5 này mọi người cùng tung lên được không?

29 comentarios:

  1. —Carlo, me voy al aeropuerto, cojo el primer avión que salga para Roma, no
    me puedo quedar aquí...
    —Mercedes, no te muevas hasta que te llame, no podemos cometer errores.
    No escapará, confía en mí.
    Colgó el teléfono sintiendo la misma angustia que había notado en la mujer.
    Conociéndola, no descartaba que en dos horas le llamara desde Fiumicino.
    Mercedes era incapaz de quedarse quieta y esperar, y en aquel momento menos
    que nunca.
    Marcó un número de teléfono de Bonn y esperó impaciente a que alguien
    respondiera.

    ResponderEliminar
    Respuestas
    1. - Carlo, tôi sẽ ra sân bay ngay, bắt chuyến đầu tiên đi Roma. Tôi không thể ở lại đây nữa.
      - Mercedes, tạm thời cứ ở yên đó cho đến khi tôi gọi. Chúng ta không thể phạm sai lầm. Khoan vội đi đâu cả. Cứ tin tưởng ở tôi.

      Mercedes gác máy với cảm giác đau đớn, một nỗi đau rất đỗi đàn bà. Bà tự biết, không loại trừ khả năng, chỉ hai tiếng nữa, bà sẽ gọi cho Carlos từ sân bay Fiumicino (*). Mercedes không thể giữ im lặng mà chờ đợi. Ở thời điểm này, có chút gì đó còn hơn không. Bà bấm mã số của Bonn và nôn nao chờ đợi xem ai sẽ bắt máy.

      Sân bay Quốc tế Leonardo da Vinci (tiếng Ý: Fiumicino – Aeroporto Internazionale Leonardo da Vinci) (IATA: FCO, ICAO: LIRF), là sân bay tọa lạc ở Fiumicino, là sân bay lớn nhất của Italia, nằm cách thủ đô Roma 28 km. Tên sân bay được đặt theo tên của danh họa Leonardo da Vinci. Sân bay được mở cửa từng giai đoạn trong những năm 1956 - 1961 và liên tục được nâng cấp. Năm 2011, với hơn 37,7 triệu lượt khách[1], sân bay Fiumicino đứng thứ sáu trong bảng xếp hạng các sân bay có số lượng hành khách đông nhất châu Âu, sau các sân bay của Anh, Pháp, Đức, Tây Ban Nha và Hà Lan, là sân bay tấp nập thứ 25 thế giới.

      Eliminar
    2. Phương:
       Carlo à, tôi nhất định phải ra sân bay, bắt chuyến bay đàu tiên đến Roma. Tôi không thể cứ ngồi đây chờ đợi được.
       Mercedes, cô không được có bất cứ động thái nào cho đến khi tôi gọi, chúng ta không thể phạm sai lầm. Cứ tin ở tôi. Hắn sẽ không thoát được đâu.
      Ông gác máy mà lòng chất chứa cùng một nỗi lo mà ông cảm nhận được từ người phụ nữ. Vốn hiểu rõ cô, ông không loại trừ khả năng trong hai tiếng tới ông sẽ nhận được của gọi ủa cô từ sân bay Fiumicino. Mercedes căn bản không thể ngồi yên chờ đợi nhất là lại vào thời điểm này. Ông bấm số gọi đến Bonn rồi sốt ruột chờ đơi điện thoại được nhấc máy ở đầu bên kia.

      Eliminar
    3. Vậy là đã có sự khác biệt: Bà Mercedes này - hay ông Carlo đây? - mọi người cho ý kiến nhé.

      Eliminar
    4. - Carlo, giờ tôi đến sân bay, bắt ngay chuyến đầu tiên đến Roma. Tôi không thể ở lại đây được
      - Mercedes, đừng đi đâu đến khi tôi gọi. Chúng ta không được mắc sai lầm. Tin tôi đi, hắn không thoát được đâu.
      Carlo gác máy, lòng mang cùng một nỗi khổ tâm như ông đã thấy Mercedes đang mang. Ông hiểu bà nên không loại trừ khả năng bà sẽ gọi lại sau 2 giờ từ sân bay Fiumicino. Mercedes vốn không thể ngồi yên một chỗ chờ đợi, và lúc này lại càng không. Ông quay số gọi đến Bonn và nhấp nhổm chờ ai đó bắt máy.

      Eliminar
  2. —¿Quién es?
    —¿El profesor Hausser, por favor?
    —¿Quién le llama?
    —Carlo Cipriani.
    —¡Soy Berta! ¿Qué tal está usted?
    —¡Ah, querida Berta, qué alegría escucharte! ¿Cómo están tu marido y tus
    hijos?
    —Muy bien, gracias, con ganas de volver a verle, no se olvidan de las
    vacaciones que pasamos hace tres años en su casa de la Toscana, nunca se lo
    agradeceré bastante, nos invitó en un momento en que Rudolf estaba al borde
    del agotamiento y...
    —Vamos, vamos, no me des las gracias. Estoy deseando volver a veros, estáis
    siempre invitados. Berta, ¿está tu padre?

    ResponderEliminar
    Respuestas
    1. - Ai vậy?
      - Cho tôi nói chuyện với giáo sư Hausser được không?
      - Nhưng ai đầu dây?
      - Carlo Cipriani.
      - Cháu Berta đây. Bác khỏe không ạ?
      - À Berta. Vui quá khi biết là cháu. Chồng và bọn nhỏ thế nào?
      - Dạ khỏe lắm, bác à. Cám ơn bác. Cả nhà mong được gặp lại bác lắm. Không thể quên được kỳ nghỉ cách đây 3 năm ở nhà của bác ở Toscana (**), chưa bao giờ vui đến vậy. Bác đã mời bọn cháu đến chơi ngay cái thời điểm mà Rudolf gần như sức cùng lực tận, và...
      - Được rồi, được rồi. Ơn nghĩa gì. Bác cũng thèm được gặp bọn cháu lắm đây. Bọn cháu là khách mời thường xuyên của bác mà. Berta, thế ba cháu đâu?

      Eliminar
    2. Toscana (tiếng Ý: Toscana) một vùng của Ý. Thủ phủ là Florence. Có 6 địa danh được liệt kê vào di sản thế giới UNESCO: trung tâm lịch sử Florence (1982), trung tâm lịch sử Siena (1995), quảng trường Giáo đường Pisa (1987), trung tâm lịch sử San Gimignano (1990), trung tâm lịch sử Pienza (1996) và Val d'Orcia (2004). Vùng này có diện tích 22.990km2, dân số thời điểm năm 2008 là 3,7 người.

      Có một phim đáng xem về vùng này là Under the Tuscan Sun (bà con nên xem)

      Eliminar
    3. - Ai đấy ạ?
      - Vui lòng cho gặp giáo sư Hausser.
      - Vui lòng cho hỏi ai đang gọi đến a?
      - Carlo Cipriani.
      - Cháu là Berta đây ạ. Chú khỏe không?
      - À, Berta thân mến, gặp cháu chú vui quá! Ông xã và tụi nhỏ thế nào rồi?
      - Dạ rất khỏe ạ, cảm ơn chú, và mọi người nhà cháu vẫn mong được gặp chú đấy, không ai quên được kì nghỉ mà chúng ta đã trải qua cùng nhau cách đây ba năm trong ngôi nhà của chú ở Toscana, chúng cháu không thể bầy tỏ hết sự biết ơn đến chú vì đã mời gia đình cháu đến đó vào đúng thời điểm mà Rudolf đang trong thời kì khó khăn ấy.
      - Thôi nào, thôi nào, đừng cảm ơn chú. Chú cũng đang rất mong muốn được gặp các cháu đây. Các cháu luôn được chào đón ở đây. À Berta, cha của cháu có ở đó chứ?

      Eliminar
    4.  Ai đó?
       Xin cho tôi được nói chuyện với giáo sư Hausser
       Cho hỏi ai đầu dây vậy?
       Carlos Cipriani.
       Ôi, háu là Berta đây! Bác có khỏe không?
       A, Berta than mến, thật vui khi được nghe giọng cáu. Chồng con dạo này thế nào?
       Gia đình cháu khỏe, cảm ơn bác. Mọi người đều rất muốn gặp lại bác. Cả nhà cứ nhớ hoài lần đi nghỉ tại nhà bác ở Toscana 3 năm về trước. Không gì có thể thể hiện hết lòng cảm kích của cháu đến bác. Bác đã mời chúng cháu đến chơi ngay thời điểm Rudolf đang gặp khó khắn nhất và…
       Thôi nào, có gì đâu mà cảm ơn. Bác đang mong muốn được gặp lại mọi người đây. Cả nhà luôn luôn được chào đón ở đây, Berta à. Mà ba cháu dâu?

      Eliminar
    5. - Ai đấy?
      - Xin cho tôi gặp thầy Hausser.
      - Xin hỏi ai vậy?
      - Carlo Cipriani.
      - Là cháu, Berta đây chú! Chú Carlo khỏe không?
      - À, Berta thân mến, gặp cháu thật vui quá! Chồng cháu và mấy đứa nhỏ thế nào?
      - Dạ, khỏe lắm, cám ơn chú. Cả nhà đều muốn gặp chú. Mọi người đều nhớ như in kỳ nghỉ 3 năm trước ở nhà chú ở Toscana. Không biết cảm ơn chú làm sao cho đủ. Chú mời bọn cháu đến chơi vào thời điểm mà Rudolf gần như khánh kiệt, rồi…
      - Thôi, thôi, có gì mà cám ơn. Chú cũng đang muốn gặp mấy đứa. Lúc nào chú cũng hoan nghênh tụi cháu. Bố cháu có đấy không Berta?

      Eliminar
  3. La mujer percibió el apremio en la voz del amigo de su padre e interrumpió la
    charla no sin cierta preocupación.
    —Sí, ahora se pone. ¿Está usted bien? ¿Pasa algo?
    —No, querida, nada, sólo quería charlar un rato con él.
    —Sí, ahora se pone. Hasta pronto, Carlo.
    —¡Ciao, preciosa!
    No pasaron más que unos breves segundos antes de que la voz fuerte y
    rotunda del profesor Hausser le llegara a través de la línea telefónica.
    —Carlo...
    —Hans, ¡está vivo!

    ResponderEliminar
    Respuestas
    1. Cảm nhận được sự nóng lòng trong giọng nói của người bạn cha mình, Berta chẳng ngại ngần cắt ngang cuộc nói chuyện.
      - Vâng. Đây ạ. Bác khỏe chứ? Có gì sai hay sao bác?
      - Không có gì đâu cháu. Chỉ là bác muốn tán dóc với ông ấy thôi.
      - Vâng, ba cháu cầm máy ngay đây. Hẹn sớm gặp lại bác, Carlo.
      - Chào, cháu cưng.
      Chỉ mấy giây sau, đã nghe thấy giọng nói mạnh mẽ và hùng hồn của giáo sư Hausser trên điện thoại:
      —Carlo...
      —Hans. Hắn còn sống.

      Eliminar
    2. Người phụ nữ cảm nhận được sự nóng lòng trong giọng nói của người bạn của cha của mình và cô ta ngừng trò chuyện và có chút lo lắng.
      - Vâng, chú giữ máy nhé! Mà chú ổn không? Đã xảy ra chuyện gì thế ạ?
      - Không có gì, cháu yêu à, chỉ là chú muốn nói chuyện một lát với ông ta thôi.
      - Dạ, vậy chú giữ máy nhé! Hẹn sớm gặp lại chú Carlo.
      - Tạm biết cháu gái.
      Chỉ ít giây sau, một giọng hào sảng, dõng dạng của giáo sư Hauser đến từ đầu dây bên kia.
      - Carlo
      - Hans, hắn ta vẫn còn sống.

      Eliminar
    3. La mujer percibió el apremio en la voz del amigo de su padre e interrumpió la charla no sin cierta preocupación. --- đang có sự khác biệt giữa hai cách dịch cho câu này:
      1. ...Berta chẳng ngại ngần cắt ngang cuộc nói chuyện.
      2. ...và cô ta ngừng trò chuyện và có chút lo lắng.

      Mời mọi người thảo luận thêm.

      Eliminar
    4. Phương:
      Berta như cảm nhận được sự căng thẳng trong giọng nói người bạn của ba mình bèn cắt ngang cuộc nói chuyện với một nỗi lo lắng mơ hồ.
       Vâng, cháu chuyển máy cho ban gay đây. Mà bác có sao không Có gì không ổn sao?
       À không, cháu à. Bác chỉ muốn nói chuyện phiếm với ông ấy thôi.
       Vâng. Vậy cháu đưa máy cho ba liền. Hẹn gặp lại bác, Carlo.
       Ừ. Chào cháu nhé.
      Chỉ vài giây sau bên đầu dây bên kia đã vang lên giọng nói mạnh mẽ, dứt khoát của giáo sư Hausser.
       Carlo
       Hans à, hắn vẫn còn sống!

      Eliminar
    5. "No sin cierta preocupacion" tức là không thể nào không lo lắng đó anh.

      Eliminar
    6. Berta nhận ra ngay sự nóng lòng trong giọng nói của bạn cha cô và cô cắt ngay cuộc tán chuyện mà không khỏi lo lắng.
      - Có, cháu gọi bố ngay. Chú có sao không ạ? Có chuyện gì ạ?
      - Không đâu cháu yêu. Chú chỉ muốn tán chút chuyện với bố cháu ấy mà.
      - Vâng, cháu gọi bố ngay. Hẹn sớm gặp chú, chú Carlo.
      - Ciao cháu yêu.
      Chỉ sau vài giây ngắn ngủi, giọng nói khỏe và đầy uy lực của thầy Hausser vang lên qua điện thoại:
      Carlo…
      - Nghe này Hans. Hắn còn sống!

      Eliminar
  4. Los dos hombres se quedaron en silencio, cada uno escuchando la respiración
    cargada de tensión del otro.
    —¿Dónde está?
    —Aquí, en Roma. Le he encontrado por casualidad, hojeando un periódico. Sé
    que no te gusta internet, pero entra y busca cualquier periódico italiano, en las
    páginas de cultura, allí le encontrarás. He contratado a una agencia de detectives
    para que le vigilen las veinticuatro horas y le sigan vaya a donde vaya si deja
    Roma. Nos tenemos que ver. Ya he hablado con Mercedes, ahora llamaré a
    Bruno.
    —Iré a Roma.
    —No sé si es buena idea que nos veamos aquí.
    —¿Por qué no? Él está ahí y tenemos que hacerlo. Vamos a hacerlo.
    —Sí. No hay nada en el mundo que pueda impedírnoslo.
    —¿Lo haremos nosotros?
    —Si no encontramos a alguien sí. Yo mismo. He pensado en ello durante toda
    mi vida, en cómo sería, qué sentiría... Estoy en paz con mi conciencia.
    —Eso, amigo mío, lo sabremos cuando haya acabado todo. Que Dios nos
    perdone, o que al menos nos comprenda.
    —Espera, me llaman por el móvil... es Bruno. Cuelga, te volveré a llamar.

    ResponderEliminar
    Respuestas
    1. Cả hai người đàn ông đột ngột im lặng, nghe được cả tiếng thở mạnh của nhau.
      - Hắn đang ở đâu.
      - Ngay đây, ở Roma này. Tôi tình cờ tìm thấy hắn, chỉ nhờ lướt một tờ báo. Tôi biết là ông không thích mạng mẽo, nhưng cũng nên vào mạng và tìm bất kỳ một tờ báo tiếng Ý nào, mục Văn hóa, và hắn… ở đó. Tôi đã ký hợp đồng với một công ty thám tử để có thể theo dõi hắn 24/24. Theo dõi hắn đi đâu, ngay cả khi ra khỏi Roma. Chúng ta phải gặp nhau. Tôi đã nói chuyện với Mercedes, và giờ tôi gọi cho Bruno đây.
      - Tôi sẽ đi Roma.
      - Tôi không chắc liệu việc chúng ta gặp nhau ở đây có là ý tưởng hay hay không.
      - Sao không? Hắn ở đó, và chúng ta phải làm thế. Phải gặp nhau thôi.
      - Ừ. Không thứ gì có thể ngăn chúng ta thôi chuyện đó.
      - Chúng ta sẽ làm chuyện đó chứ?
      - Chỉ trong trường hợp chúng ta không tìm được ai khác. Tôi cũng vậy. Tôi đã nghĩ về nó cả cuộc đời mình. Nó sẽ như thế nào, cảm nhận gì… Nó luôn ở trong tâm trí tôi.
      - Vì thế, bạn tôi ơi, chúng ta biết là khi nào phải khởi sự. Chúa sẽ tha lỗi cho chúng ta, hoặc ít ra cũng hiểu điều chúng ta làm.
      - Đợi một chút. Bruno đang gọi di động cho tôi. Gác máy đi, tôi sẽ gọi lại cho anh sau.

      Eliminar
    2. Hai người đàn ông lặng yên, nghe được cả hơi thở nặng nề, căng thẳng của nhau.
      - Hắn đang ở đâu thế?
      - Ở đây, Roma. Tôi dẫ gặp hắn ta thường xuyên khi liếc qua một tờ báo. Tôi biết là ông không thích internet nhưng hãy vào mạng và tìm mục văn hóa ở bất kì tờ báo tiếng Ý nào, ông sẽ đọc thấy thông tin của hắn. Tôi đã kí hợp đồng với một văn phòng thám tử để theo dõi hắn 24/24 và đến bất cứ nơi đâu nếu hắn rời Roma. Chúng ta phải gặp nhau. Tôi đã nói chuyện với Mercedes, bây giờ tôi sẽ gọi cho Bruno.
      - Tôi sẽ đi Roma.
      - Tôi không biết việc chúng ta gặp nhau có phải là ý kiến hay hay không?
      - Tại sao không? Hắn ta ở đó và chúng ta phải ra tay thôi. Chúng ta sẽ làm điều đó.
      - Ừ. Không có gì trên thế giới này có thể ngăn chặn được chúng ta.
      - Chúng ta sẽ làm thế.
      - Nếu chúng ta không gặp nhau. Tôi cũng thế. Tôi đã nghĩ đến anh ta suốt cuộc đời mình, đúng như những gì tôi cảm nhận. Tôi bình thản nhận thức mọi vấn đề.
      - Này, anh bạn của tôi. Chúng ta sẽ biết điều đó khi mọi thứ hoàn tất. Chúa phù hội cho chúng ta, hay là
      - Chờ chút, ai đó gọi cho tôi qua điện thoại di động, … đó là Bruno. Cúp máy đi, tôi sẽ gọi lại cho ông.

      Eliminar
    3. Phương:
      Cuộc nói chuyện đột ngột rơi vào trạng thái im lặng. Hai người đàn ông như cảm nhận được sự căng thẳng trong hỏi thở của nhau.
       Hắn giờ ở đâu?
       Ở đây, tại Roma này. Tôi tình cờ phát hiện ra hắn lúc liếc sơ qua mấy trang nhật báo. Tôi biết là ông không thích internet, nhưng mà ông cứ vào mạng, tùy tiện tìm trong bất kì tờ báo tiếng Ý, ông sẽ thấy hắn ở trang văn hóa. Tôi đã thuê một văn phòng thám tử để theo dõi 24/24 và bám sát hắn trong trường hợp hắn rời hỏi Roma. Chúng ta cần phải chờ đợi và quan sát. Tôi đã lien lạc với Marcedes va nói chuyện với Bruno rồi.
       Tôi sẽ tới Roma ngay.
       Tôi không nghĩ việc chúng ta đều gặp nhau tại Roma là ý kiến hay.
       Tại sao không? Hắn đang ở đó, vậy nên chúng ta phải hành động ngay thôi. Chúng ta sẽ làm việc ấy cùng nhau.
       Vâng. Không gì có thể ngăn cản chúng ta hành động cả.
       Vậy chúng ta sẽ làm việc đó chứ?
       Vâng, nếu chúng ta không tìm được ai hết. Tôi cũng như ông thôi. Tôi đã nghĩ về việc này xuyên suốt cả cuộc đời mình, về việc hắn sẽ ra sao, sẽ cảm tháy như thế nào… Tôi cảm nhận được sự bình an trong tấm trí mình.
       Về việc này, bạn của tôi ơi, chúng ta sẽ suy nghĩ về nó khi mọi chuyện kết thúc. Chúa sẽ than thứ cho chúng ta thôi hay ít nhất ngài cũng sẽ hiểu cho việc chúng ta làm.
       Đợi đã, có ai đó đang gọi điện cho tôi. A, là Bruno. Gác máy đi, tôi sẽ gọi lại anh sau.

      Eliminar
    4. 2 người đàn ông im lặng, mỗi người lắng nghe nhịp thở chất đầy căng thẳng của người kia.
      - Hắn đang ở đâu?
      - Ở đây. Ở Roma. Tôi tình cờ thấy hắn lúc đọc báo. Tôi biết anh không thích Internet, nhưng anh lên mạng dò bất kỳ tờ báo Ý nào, mục văn hóa, là thấy hắn. Tôi đã thuê thám tử theo dõi hắn 24/24 và đi theo hắn đến bất kỳ đâu, nếu hắn rời Roma. Chúng ta cần gặp nhau. Tôi nói chuyện với Mercedes rồi. Giờ tôi gọi Bruno.
      - Tôi sẽ đến Roma.
      - Tôi không biết gặp nhau ở đây có là ý hay không nữa.
      - Sao lại không? Hắn ở đó và chúng ta phải làm thôi. Chúng ta sẽ làm.
      - Phải. Không gì trên đời có thể ngăn chúng ta làm việc đó.
      - Chúng ta sẽ làm chứ?
      - Nếu không gặp ai thì tôi cũng tự làm. Cả đời tôi đã luôn nghĩ về việc đó, nghĩ xem nó sẽ thế nào, cảm giác ra sao… Lương tâm tôi thanh thản.
      - Ông bạn, chúng ta sẽ biết chuyện đó sau khi mọi chuyện kết thúc. Cầu Chúa tha tội chúng ta, hoặc ít nhất là hiểu cho chúng ta.
      - Chờ đã, có người gọi tôi… Là Bruno. Ông cúp máy đi, tôi gọi lại sau.

      Eliminar
  5. —¡Carlo!
    —Bruno, te iba a llamar ahora...
    —Me ha llamado Mercedes..., ¿es verdad?
    —Sí.
    —Salgo inmediatamente de Viena para Roma, ¿dónde nos vemos?
    —Bruno, espera...
    —No, no voy a esperar. Lo he hecho durante más de sesenta años y si él ha
    aparecido no voy a esperar ni un minuto más. Quiero participar, Carlo, quiero
    hacerlo...
    —Lo haremos. De acuerdo, venid a Roma. Llamaré otra vez a Mercedes y a
    Hans.
    —Mercedes se ha ido ya al aeropuerto, y mi avión sale de Viena dentro de
    una hora. Avisa a Hans.
    —Os espero en casa.

    ResponderEliminar
    Respuestas
    1. - Carlo
      - Bruno, tôi đang định gọi cho anh đây.
      - Mercedes đã gọi cho tôi, đúng không?
      - Đúng vậy.
      - Tôi sẽ rời Vienna để đến Roma ngay lập tức. Chúng ta sẽ gặp nhau ở đâu?
      - Bruno, hượm đã…
      - Không, tôi không đợi được nựa. Tôi đã làm điều này suốt hơn sáu mươi năm qua, và nếu như hắn ta đã lộ diện, tôi không thể chờ đợi thêm một phút nào nữa. Tôi muốn tham gia, Carlo, tôi muốn…
      - Chúng ta sẽ làm điều đó mà. Đồng ý, đến Roma đi. Tôi sẽ gọi lại lần nữa cho Mercedes và Hans.
      - Mercedes đã đến sân bay rồi, và máy bay của tôi cũng sẽ rời khỏi Viena trong vòng một tiếng nữa. Thông báo cho Hans đi.
      - Tôi sẽ đợi mọi người ở nhà

      Eliminar
    2. Vienna is the capital and largest city of Austria, and one of the nine states of Austria.

      Eliminar
    3. - Carlo!
      - Bruno, tôi đang định gọi cho ông…
      - Tôi đã gọi cho Mercedes … đó là sự thật hả?
      - ờ
      - Tôi sẽ rời khỏi Viên đến Roma ngay. Chúng ta sẽ gặp nhau ở đâu?
      - Bruno, chờ chút….
      - Không, tôi sẽ không chờ. Tôi đã chờ suốt bảy năm rồi và nếu hắn ta xuất hiện, tôi không thể chờ một giây phút nào nữa. Tôi muốn tham gia, Carlo, tôi muốn thực hiện điều đó.
      - Chúng ta sẽ làm điều đó. Đồng ý nhé, các ông đến Roma nhé. Tôi sẽ gọi lại một lần nữa cho Mercedes và Hans.
      - Mercedes đã đi ra sân bay rồi, và chuyến bay của tôi cũng rời Viên trong khoảng 1 giờ nữa. Ông nói với Hans nhé!
      - Tôi chờ mọi người ở nhà.

      Eliminar
    4.  Carlo!
       Bruno, ban nãy tôi đang tính gọi anh…
       Tôi đã ní chuyện với Mercedes rồi… Việc đó là thật sao?
       Vâng
       Tôi sẽ bay thẳng từ Viena tới Roma ngay. Chúng ta sẽ gặp nhau ở đâu?
       Bruno, khoan đã…
       Không, tôi sẽ không chờ đợi nữa. Tôi đã chờ đợi hơn suốt 60 năm rồi và giờ nếu hắn đã xuất hiện, đôi nhất định không chần chừ một giây phút nào nữa. Tôi muốn tham gia, Carlo à, tôi muốn hành động…
       Rồi chúng ta sẽ làm việc đó. Tôi đồng ý với anh. Mọi người hãy đến Roma đi. Tôi sẽ gọi cho Mercedes và Hans lần nữa.
       Giờ này chắc Mercedes đã ra đến sân bay rồi, còn chuyến bay của tôi sẽ tời Viena trong vòng 1 tiếng tới. Anh thông báo cho Hans đi.
       Tôi sẽ đợi mọi người ở nhà.

      Eliminar
    5. - Chào Carlo!
      - Này, tôi vừa định gọi ông đấy…
      - Mercedes gọi tôi. Chuyện là thật à?
      - Ừ.
      - Tôi đáp chuyến Vienne-Roma ngay. Gặp nhau ở đâu?
      - Chờ đã Bruno.
      - Dẹp. Không chờ gì hết. Tôi đã làm việc đó hơn 17 năm và nếu hắn xuất hiện thì tôi không đợi gì hết. Một giây cũng không. Tôi muốn tham gia. Tôi muốn làm việc đó, Carlo.
      - Chúng ta cùng làm. Đồng ý, mọi người đến Roma. Tôi sẽ gọi lại cho Mercedes và Hans.
      - Mercedes giờ đã lên đường đến sân bay rồi. Máy bay của tôi cũng sẽ cất cánh trong vòng một giờ. Ông báo cho Hans nhé.
      - Tôi đợi mọi người ở nhà.

      Eliminar